Bán trống sấm – Trống đại Đọi Tam
Bán trống sấm – Trống đại Đọi Tam
Bán trống sấm – Trống đại Đọi Tam Dưới chân núi Đọi, xã Đọi Sơn, Duy Tiên, Hà Nam có 3 làng Đọi nhưng chỉ làng Đọi Tam có nghề làm trống. Tương truyền có 2 anh em tên Nguyễn Tiến Năng và Nguyễn Tiến Đạt đã làm ra những chiếc trống chào đón vua.
- Mộ cụ Tổ Trạng Sấm Nguyễn Đức Năng tại làng trống Đọi Tam
Lê Hoàn đến khai khẩn mảnh đất Đọi Sơn khai sinh ra nền nông nghiệp lúa nước vào năm 986. Nghe tiếng trống mừng rền vang như sấm dậy, vua Lê Hoàn lấy tên Trống sấm đặt tên cho những chiếc trống này. Trống sấm Đọi Tam có từ thủa đó.
Căng và phơi da trâu dưới trời nắng gắt.
Trống sấm trống đại là gì?
Nghệ nhân Phạm Văn năm nay 85 tuổi, một trong 2 nghệ nhân cao tuổi nhất, dày dạn kinh nghiệm nhất trong làng trống cho biết: Năm 986, được tin vua Lê Đại Hành sửa soạn về làng làm công tác tịch điền dưới chân núi Đọi, nhân dân nô nức đến xem. Lúc đó, cụ Năng và người em là Đạt biết tin đã đốn cây mít xẻ ra thành các mảnh, ghép lại và lấy da trâu bưng kín. Khi vua đến, hai anh em cụ Năng đem trống ra đánh. Nghe tiếng trống như tiếng sấm rất khí thế nên vua liền gọi trống đó là trống sấm, hai anh em được dân làng tôn là Trạng Sấm. Hiện nay vẫn còn ngôi đền thành hoàng dưới chân núi Đọi thờ hai anh em. Các cụ trong làng Đọi Tam còn kể một câu chuyện gõ trống mừng vua nữa. Đó là lần vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Đại La. Tương truyền khi đoàn thuyền rồng rẽ từ sông Đáy vào sông Châu để thông ra sông Cái (sông Hồng), đến đoạn uốn lượn ở dưới chân núi Đọi thì dân làng mang trống ra gõ mừng. Vua lấy làm hài lòng, bèn cho một số thợ làng Đọi Tam đi theo về lập kinh đô mới. Vì thế, có nhiều giả thuyết cho rằng, phố Hàng Trống ở kinh thành Thăng Long được lập từ những người thợ trống làng Đọi Tam thời đó.
Pha gỗ để làm “dăm” trống.
Để dựng được một chiếc trống hay, điểm trọng yếu phải có được bộ da ưng ý để “bưng” trống. Nghệ nhân làng Đọi Tam khi có người đặt làm trống, đặc biệt là những chiếc trống sấm, thường tự mình đi tìm mua những con trâu to khỏe để thịt. Họ không dám để những anh đồ tể làm vì sợ sẽ hỏng mất bộ da. Mảng da phần đầu, gáy, thậm chí tứ chi cũng được cân nhắc kỹ trước khi đưa dao để rạch. Một nghệ nhân làm trống ngoài con mắt nghệ thuật, cái tai thính còn cần có đôi bàn tay điêu luyện của một “đồ tể” hạng ưu. Những “đồ tể” nghệ nhân này khi lột da trâu không bao giờ cần đường rạch lần thứ 2. Lột được bộ da lớn nguyên tấm, người thợ trống đem thuộc. Cái hay, cái giỏi và tài hoa của người thợ trống Đọi Tam thể hiện qua kỹ thuật xử lý da trâu hơn hẳn nhiều làng nghề khác. Giai đoạn công phu này đòi hỏi họ phải có kinh nghiệm. Những người thợ trống Đọi Tam thường đi mua da trâu vào những ngày trời nắng và khi đem về là phải phơi ngay. Dưới cái nắng gay gắt, da trâu được hong khô, có như vậy tiếng trống mới ấm, vang xa. Trong quá trình bào da, những người thợ có tay nghề phải dồn hết tâm trí vào công việc. Nếu miếng da trâu dày hoặc mỏng hơn tiêu chuẩn, tiếng trống sẽ biến âm. Khâu tiếp là làm tang trống. Tang trống gỗ mít hay còn gọi là “dăm”. Những người thợ làng trống Đọi Tam chọn dăm là loại gỗ mít già, vừa nhẹ, không bị ngót và quan trọng nhất là giữ được tiếng. Tùy theo kích cỡ trống mà định ra bao nhiêu dăm. Độ cong và độ dẻo của dăm cũng được tính toán kỹ để khi ghép thành tang trống thì vừa khít. Ngoài ra, để cho tang trống thật kín, những người thợ Đọi Tam còn dùng sơn ta miết vào các khe. Cứ một lớp sơn lại có một lớp vải màn. Công đoạn căng mặt trống cũng hết sức quan trọng, sao cho vừa căng lại vừa kín, khi đánh tạo tiếng kêu giòn, vang. Việc căng mặt trống hết sức vất vả, tốn nhiều công sức. Vì vậy, khâu này thường dành cho cánh đàn ông. Trên mặt trống lớn, các thợ trống thực hiện những “vũ điệu” trên mặt da trâu bằng đôi chân trần, mỗi khi dừng vũ điệu, người ở dưới sẽ siết con vặn để kéo mặt trống. Chỉ đến khi âm thanh từ “vũ điệu” trở nên đanh lại, rền vang thì người thợ trống mới tiến hành đóng mộng định vị bằng đinh tre cật.
Nghề phụ mang lại thu nhập chính
Thôn Đọi Tam hiện có 650 hộ gồm 2.100 nhân khẩu nhưng có tới gần 600 thợ làm trống lành nghề. Nghề chính vẫn là sản xuất nông nghiệp với hai vụ mùa, song nghề làm trống những lúc nông nhàn cũng mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho người dân địa phương. Gần một ngàn thợ làm trống tại làng, ngoài lao động sản xuất ngay tại địa phương còn tỏa đi nhiều nơi của đất nước để sản xuất, kinh doanh trống. Nếu như trước đây, mọi công đoạn sản xuất trống được thực hiện thủ công thì nay làng trống đã đưa vào sử dụng nhiều máy móc hiện đại như máy tiện, bào, cưa… để giải phóng phần nào sức lao động của con người. Nhờ vào nghề làm trống mà nhiều hộ dân nơi đây ăn nên làm ra. Cơ sở sản xuất trống của gia đình anh Lê Ngọc Trung, 29 tuổi, một trong những cơ sở lớn nhất của làng có 10 thợ trẻ làm việc, cơ sở sản xuất của anh lúc cao điểm có nhiều thợ làm việc với mức lương từ 3 – 3,5 triệu đồng/người/tháng. Anh TRung cho biết, mỗi năm, cơ sở sản xuất khoảng 2.000 chiếc trống các loại, sử dụng hơn 100m3 gỗ mít và hàng nghìn tấm da trâu để chế tác trống, từ những chiếc trống cóc cầm bằng tay đến những chiếc trống bản, trống đại còn được gọi là trống sấm. Chiếc trống lớn nhất cơ sở từng sản xuất có đường kính bề mặt lên tới 2,3m, cao 2,6m phục vụ cho Đại lễ cung nghinh ngọc xá lợi phật tại chùa Bái Đính (Ninh Bình), làm trống rất công phu, từ việc chọn những cây gỗ mít nhiều năm tuổi, thân cây có vân đều, được xẻ ra thành những khúc nhỏ làm tang trống có bề dày từ 1,5 – 2cm tùy vào đường kính trống. Theo một công thức nhất định, tang trống được ghép nối với nhau vừa khít thành hình trụ tròn, da trâu sau khi được xử lý kỹ, phơi khô được căng vào hai đầu làm mặt trống, sau đó được đóng mộng định vị. Thường thì một thợ giỏi có thể làm được 4 chiếc trống/ngày, mỗi chiếc có đường kính 60cm.
Bưng mặt trống.
Ông Hồng – một nghệ nhân cao tuổi nhất trong làng, đã gắn bó với nghề gần 70 năm nay tâm sự: “Tôi đã được tổ tiên truyền lại nghề khi mới 12 tuổi. Bây giờ nghề đã ăn sâu vào từng giọt máu, từng thớ thịt, trong tiềm thức của tôi rồi. Dù thế nào đi nữa, tôi vẫn luôn căn dặn con cháu phải giữ gìn và truyền lại nghề cho đời sau, đừng bao giờ để nghề mai một. Sống thì theo nghề, đã là người Đọi Tam thì phải biết nghề truyền thống của người Đọi Tam”.
Trống Sấm trong nghệ thuật:
Trống chầu ở đây chính là trống sấm – loại trống to nhất trong dàn nhạc nói chung và dàn nhạc tuồng nói riêng.
Gọi là trống sấm vì tiếng của nó vang to như sấm, âm thanh vang rền, hùng tráng. Trống sấm thường được dùng mở đầu các bài nhạc lễ, mở đầu các hội hè và mở đầu các vở diễn tuồng. Tùy theo tình tiết của vở tuồng, trống sấm còn có khả năng diễn tả mưa gió, lửa cháy, sấm sét, thúc trống lệnh trong chiến đấu, mở đầu và kết thúc lớp hội triều… Có thể nói, trong dàn nhạc không thể thiếu vắng âm thanh của trống sấm. Tuy không quán xuyến như trống chiến nhưng những âm thanh của trống sấm làm sinh động và tạo khí thế sôi nổi, hùng tráng cho vởtuồng.
Trống sấm còn được gọi là trống cái, có thể hiểu là trống mẹ, trống lớn nhất… Tuy nhiên, khi ngoài dàn nhạc, khán giả dùng trống sấm để gõ khen thưởng, chê diễn viên thì lúc đó người ta gọi là trống chầu. Người đánh trống chầu thường là người có chức phận và kiến văn thưởng thức nghệ thuật nổi trội trong khán giả, thông qua tiếng trống chầu để bình phẩm nghệ thuật biểu diễn của nghệ sĩ. Phép đánh trống chầu có thể điểm qua như sau: Đánh một tiếng “tùng” là chấm câu, chấm động tác cho diễn viên. Đánh hai tiếng là khen, đánh ba tiếng là dồn hồi ngắn, là tán thưởng nhiệt liệt. Đánh tiếng “cắc” là chê diễn viên hát dở.